KẾT QUẢ TUYỂN CHỌN GIỐNG ĐẬU XANH CHỊU HẠN CHO VÙNG NƯỚC TRỜI ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
KẾT QUẢ TUYỂN CHỌN GIỐNG ĐẬU XANH CHỊU HẠN CHO VÙNG NƯỚC TRỜI ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Selection of drought tolerant mungbean varieties for rainfed area in Red river Delta
Giống đậu xanh triển vọng ĐX10 được thử nghiệm trong điều kiện khô hạn ở Đồng bằng sông Hồng với một số đặc điểm nông sinh học vượt trội. Dưới điều kiện hạn nhân tạo, giống ĐX10 vẫn duy trì hàm lượng nước tương đối cao trong tế bào, vượt đối chứng V123 trong các giai đoạn cây con, ra hoa và làm quả. Trên đất phù sa ven sông, chiều cao cây của ĐX10 có khả năng sinh trưởng tương tự đối chứng V123, nhưng số cành/cây lớn hơn (3,5-3,7 cành so với 2,0-2,1 cành/cây của V123) đồng thời có thời gian nở hoa tập trung hơn (14-15 ngày so với 17-19 của V123). Trên đất phù sa nội đồng ĐX10 cũng nhận được kết quả tương tự. Do đó ĐX10 có khả năng sinh trưởng khá ổn định trên các vùng đất khô hạn ở ĐBSH. ĐX10 có tiềm năng năng suất cao, tương ứng là 2,3 và 2,12 tấn/ha trên đất phù sa ven sông và phù sa nội đồng trong vùng nước trời.
Promising mung bean variety DX10 was tested in drought conditions with some superior agro-biological characteristics in RRD. Under artificial drought condition, DX10 maintained high relative water content in cells comparing to check - V123 in the stages of seedling, flowering and fruit. On alluvial soils of river, plant height of DX10 was similar to V123, but number of branches per plant was higher and concentrated flowering. The same result was observed when DX10 was grown on alluvial field soils. Therefore, DX10 could be used for cultivation in rainfed regions of RRD. DX10 had high yield potential, corresponding to the net yield of 2.3 and 2.12 tons per hectar on alluvial soils of river and in alluvial field soils.