CHUỖI GIÁ TRỊ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
CHUỖI GIÁ TRỊ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
White leg shrimp value chain in the Southwest region
Nghiên cứu đã được thực hiện dựa vào cách tiếp cận liên kết chuỗi giá trị (CGT) valuelinks của GTZ (Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit - Đức), thông qua các cuộc khảo sát tất cả các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị tôm thẻ chân trắng (TCT) tại 4 tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng và Kiên Giang. Cụ thể đã khảo sát 67 đại lý và trang trại cung cấp con giống, thức ăn và thuốc thủy sản; 191 hộ nuôi tôm TCT theo hình thức thâm canh; 53 thương lái và chủ vựa; 8 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu (DNCBXK) và 54 chuyên gia trong ngành, cán bộ kỹ thuật và lãnh đạo các địa phương. Hai công cụ được sử dụng chính trong nghiên cứu này là lập sơ đồ CGT và phân tích kinh tế chuỗi. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 khâu và 10 kênh phân phối trong CGT tôm TCT ở vùng Tây Nam Bộ (TNB). Trong đó, tôm TCT phần lớn được tiêu thụ qua kênh phân phối: Hộ nuôi → Thương lái → Đại lý →DNCBXK → Người tiêu dùng nước ngoài (xuất khẩu). Có 3 sản phẩm tôm TCT xuất khẩu chính, bao gồm: tôm TCT xuất khẩu nguyên con đông lạnh (HOSO), tôm TCT xuất khẩu bỏ đầu, đông lạnh (HLSO) và tôm TCT xuất khẩu bỏ đầu, lột vỏ, còn đuôi (PTO). Trong đó, tôm PTO tạo được giá trị gia tăng và lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia trong CGT của loại sản phẩm này chưa thực sự hợp lý, theo hướng bất lợi cho các hộ nuôi. Cụ thể, các hộ nuôi chỉ nhận được 38,8% lợi nhuận, trong khi đó các DNCBXK nhận được 55,8% tổng lợi nhuận trên 1 tấn tôm TCT nguyên liệu. Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, cải thiện kênh phân phối thông qua các hoạt động liên kết ngang và liên kết dọc, cũng như cắt giảm chi phí sản xuất tôm nguyên liệu là hai giải pháp hữu hiệu để nâng cấp CGT tôm TCT ở vùng TNB.
The study was carried out based on GTZ’s value chain link approach - valuelinks (Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit - Germany), through surveys of all actors in the white leg shrimp value chain in 4 provinces of Ca Mau, Bac Lieu, Soc Trang and Kien Giang. Particularly, interviewing 67 agents and farms supplying of seeds, feeds and aquatic animals drugs and medicines, 191 households raising white leg shrimp with intensive farming; 53 traders and owners; 8 export processing enterprises (EPEs) and 54 industry experts, technicians and local leaders. The two main tools used in this study were value chain mapping and chain economic analysis. Research results showed that there are 5 stages and 10 distribution channels in the white leg shrimp value chain in the Southwest region. In which, white leg shrimp is mostly consumed through the following distribution channel: Households → Collectors → Wholesalers → EPEs → Foreign consumers (exports). There are 3 main export shrimp products, including: frozen whole shrimp exports (HOSO), headless, frozen shrimp exports (HLSO) and exported shrimp shrimp headless, peeled, and tail (PTO). In particular, PTO shrimp create the highest added value and profit. However, the distribution of profits among the participants in the value chain of this product is not really reasonable, in the direction of disadvantage for farmers. In particular, shrimp farming households receive only 38.8% of total profit of the whole value chain per 1 ton of material shrimp. In which EPEs get 55.8%. Research results have also shown that improving distribution channels through horizontal and vertical linkage activities, as well as cutting raw material production costs are two effective solutions to upgrade the white leg shrimp value chain in the Southwest region.