ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN VÔ CƠ (N, P) VÀ PHÂN HỮU CƠ ĐẾN MẬT ĐỘ VÀ SINH KHỐI GIUN ĐẤT (Lumbricina) TRÊN ĐẤT ĐỎ BAZAN TRỒNG CÀ PHÊ VỐI (Robusta) Ở CAO NGUYÊN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG
ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN VÔ CƠ (N, P) VÀ PHÂN HỮU CƠ ĐẾN MẬT ĐỘ VÀ SINH KHỐI GIUN ĐẤT (Lumbricina) TRÊN ĐẤT ĐỎ BAZAN TRỒNG CÀ PHÊ VỐI (Robusta) Ở CAO NGUYÊN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG
Effects of inorganic fertilizer (N, P) and organic fertilizers on density and biomass of earthworms (Lumbricina) on growing coffee (Robusta) basalt soil in Di Linh Plateau, Lam Dong province
Nghiên cứu ảnh hưởng phân vô cơ (N, P) và phân hữu cơ đến mật độ và sinh khối giun đất được tiến hành trên đất đỏ bazan trồng cà phê ở vùng cao nguyên Di Linh, tỉnh Lâm Đồng từ năm 2012 đến 2014. Thí nghiệm được tiến hành với 4 mức đạm (250, 320, 390 và 460 kg N/ha), 3 mức lân (100, 150, 200 kg P2 O5 /ha) và 2 mức phân hữu cơ (0 tấn, 10 tấn phân chuồng/ha) với tổng số là 24 nghiệm thức được bố trí theo kiểu Split – Split – Plot, mỗi nghiệm thức được nhắc lại 3 lần. Vườn thí nghiệm với giống cà phê vối cao sản 15 năm tuổi, năng suất bình quân 4,7 tấn/ha. Sau 3 năm bón phân tiến hành khảo sát mật độ, sinh khối giun đất vào 3 thời điểm trong năm (tháng 5, tháng 7 và tháng 10) và một số chỉ tiêu lý hóa tính đất được cho là có ảnh hưởng đến hoạt động sống của giun (độ ẩm, pH, EC, OM, N tổng số và P2 O5 dễ tiêu). Kết quả cho thấy bón phân N và phân hữu cơ ảnh hưởng đến mật độ và sinh khối giun một cách có ý nghĩa (p<0,05). Nghiệm thức14 với mức bón 10 tấn phân chuồng/ha – 320 kg N/ha – 100 kg P2 O5 /ha cho mật độ và sinh khối giun cao nhất so với đối chứng và so với đất rừng chưa qua canh tác. Việc bón phân N, P và phân hữu cơ đã làm thay đổi một cách ý nghĩa hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng N, độ dẫn điện và độ ẩm đất. Sự thay đổi các đặc tính đất trên đã trực tiếp hay gián tiếp tạo ảnh hưởng trên mật độ và sinh khối giun. Bón phân cân đối, bón kết hợp giữa phân vô cơ và hữu cơ là các vấn đề quan trọng trong canh tác bền vững của vườn cà phê.
The study on the effect of N and P fertilizers and organic fertilizer on the density and biomass of earthworms was conducted on basaltic red soil growing Robusta coffee in Di Linh plateau of Lam Dong province from 2012 to 2014. The experiment was conducted with four nitrogen rates (250, 320, 390 and 460 kg N/ha), three phosphorus rates (100, 150, 200 kg P2 O5 /ha) and two levels of organic fertilizer (0 and 10 tonnes/ha. Twenty four treatments were laid out in a Split-Split-Plot design, repeated three times. The experiment was conducted in the garden of an intensive highyielding 15 years-old Robusta coffee (with an average yield of 4.7 tons/ha). After fertilizer application for three years, soil samples were collected for worm density analysis and worm biomass in May, July and October. Soil properties such as moisture, pH, EC, OM, total N and available P2 O5 were analysed. Results showed that the application of N and organic fertilizer affected significantly on the worm density and biomass. Out of 24 treatments, NT14 with 10 tonnes of organic fertilizer + 320 kg N + 100 kg P2 O5 per hectare was recorded the highest worm density and biomass comparing with that of the control and of uncultivated forest soils. Application of N, P and organic fertilizer had significantly changed the soil OM, N concentration, EC and soil moisture. These changes affected directly or indirectly on worm density and biomass. Balanced-fertilization, combining inorganic and organic fertilizer were the key factor in sustainable development of coffee plantation.