ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT -TÀI CHÍNH CỦA NGHỀ LƯỚI KÉO VÀ LƯỚI RÊ (20-90 CV) Ở TỈNH KIÊN GIANG
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT -TÀI CHÍNH CỦA NGHỀ LƯỚI KÉO VÀ LƯỚI RÊ (20-90 CV) Ở TỈNH KIÊN GIANG
Evaluation of technical and financial efficiency of trawlers and gill nets (20-90 CV) in Kien Giang province
Kết quả nghiên cứu hiệu quả kỹ thuật - tài chính của nghề lưới kéo và lưới rê được thực hiện từ tháng 5 - 10/2018 ở tỉnh Kiên Giang cho thấy nghề lưới kéo và nghề lưới rê là hai loại nghề có số lượng tàu và sản lượng khai thác nhiều nhất. Mùa vụ khai thác là quanh năm và tập trung nhiều từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau (lưới kéo) và từ tháng 4 - 8 (lưới rê). Công suất tàu lưới kéo (47,95 CV) lớn hơn tàu lưới rê (25,62 CV). Sản lượng và tỉ lệ cá tạp của nghề lưới kéo (41,4 tấn/năm; 24,13%) cao hơn nghề lưới rê (3,1 tấn/năm; 16,7%). Lợi nhuận của tàu lưới kéo (368 triệu đồng/năm) cao hơn nghề lưới rê (149 triệu đồng/năm), nhưng tỉ suất lợi nhuận của nghề lưới kéo (0,69 lần) thấp hơn tàu lưới rê (0,79 lần).
The study on the technical and financial efficiency of trawlers and gill nets was conducted from May to October
2018 in Kien Giang province. The results showed that the trawlers and gill nets fishing had highest number of fishing boats and yields. Trawlers and gill nets can capture all year round, and the main fishing season of trawlers was from October to April and gill nets was from April to August. The capacity of trawl boats was (47.95 HP) larger than that (25.62 HP) of gill net boats. The yield and ratio of trash fish of trawlers were (41.4 tons/year; 24.13%) higher than those (3.1 tons/year; 16.7%) of gill nets. Profit of trawlers (368 million VND) was higher than that of gill nets (149 million VND), but benefit ratio of trawlers (0.69 times) was lower than that of gill nets (0.79 times).